|
32 năm bầu bạn với ViVi
Tôi biết ViVi rất sớm, và quen rất muộn.
Sớm không có nghĩa là năm 1958. Bấy giờ, cậu nhóc mười ba tuổi Võ Hùng Kiệt đã là họa sĩ chuyên vẽ bìa báo Tuổi Xanh của cụ Bùi Văn Bảo, trước “Thư Gởi Bạn Ta” một thế hệ. Và cũng bấy giờ, giữa trăm hoa đua nở, muôn người muôn vẻ, hà tất phải có lý do để cụ Bảo Vân không chọn những bậc cao niên hay những người thành danh, mà lại níu áo một đứa bé. Nửa thế kỷ sau, đứa bé ngày nào hí hoáy cầm cọ nay đã tự vun bồi cho mình một chỗ đứng vững vàng, độc lập, một cõi riêng mình, một quá trình không thể trộn lẫn. Cái nhìn xuyên suốt của bậc trưởng thượng quả là chính xác, quả là đáng phục. Quả tình chủ nhiệm báo Tuổi Xanh đã nhìn xa trông rộng, đã thấy một thiên tài khi tài năng ấy còn khép kín hương hoa, còn chờ thời gian để chín rộ. Có một câu danh ngôn, rằng “đạo đức đích thực là người thấy và nhìn nhận cung cách đạo đức của người khác.” Nếu thế, cụ Bùi quả thật cao tay khi nhìn cọ pháp của một đứa bé mà nhận chân được một thiên tài.
Sớm của tôi là năm 1964. Dạo ấy, bố mẹ tôi mê cuộc sống nông trại hơn tiện nghi thị thành, bèn bán thốc bán tháo nhà cửa đồ đạc ở Cầu Kho, phường Tây Linh, quận Thành Nội, tay bồng tay bế năm đứa chúng tôi, chất hết lên một cái xe đò hiệu Renault, đổ bộ xuống miếng đất mặn nổi phèn ở Lang Cô, làng địa đầu cực nam của tỉnh Thừa Thiên, để anh em chúng tôi nếm mùi lễ độ khi bị tước đoạt các tiện nghi của xã hội văn minh. Về đây, chúng tôi như từ trời rơi xuống. Không nước máy. Không điện thắp sáng. Không máy thu thanh. Không hàng quán. Nguyên một xã có ba chiếc Peugeot, khoảng muời lăm chiếc xe đạp, nhà ngói đếm được trên đầu ngón tay, bưu trạm không bán tem và con dấu nhật ấn bỏ quên lên mốc lên meo không bận rộn như con dấu ghi ngày của ga xe lửa. Suốt một thời thơ ấu của tôi, tôi thấy ngoài công văn chứa trong những phong bì màu vàng, chưa hề một lá thư gởi đi, và túi thư về quanh năm trống rổng, chỉ trừ tháng hai lần không cần cắt dấu xi, người bưu tá cũng đã biết bên trong duy nhất là tờ bán nguyệt san Tuổi Hoa bằng cuốn vở “Cyclo” giấy đen, gấp làm đôi, thắt ngang lưng là mảnh giấy viết bằng tay tên người nhận và địa chỉ. Không nói, các bạn cũng thừa đoán ra được rằng tờ báo của tôi sẽ được luân lưu qua bao nhiêu bàn tay, và trong những trao đổi thảo luận của đám độc giả tập thể chúng tôi sau đó thế nào cũng có phần “bình” về nét vẽ của một nhân vật mới ký tên ViVi, xen kẽ với họa sĩ R.Nguyễn.
Đầu những năm 70, khi đã vào sinh ra tử với “Mùa hè Đỏ Lửa”, có đến hai lần về phép, mượn cái “xe jeep Đại Hàn” mà anh em tòa soạn Sóng Thần vẫn gọi là “chiếc xe tăng”, tôi lái từ Võ Tánh tới Kỳ Đồng tìm thăm và làm quen nhưng cả hai lần đều không gặp anh chàng họa sĩ. Rõ vô duyên! Rồi biến cố “tháng Tư đen”, tôi làm hành khách duy nhất trên chuyến bay C-130 từ Tân Sơn Nhất ra Đà Nẵng ngày 22-3-1975, trong khi bắc quân đã chiếm Huế và Ban Mê Thuột. Máy bay bị hư, một chong chóng lười biếng không quay, phi công lết được con tàu sắt xuống Biên Hòa để chẩn bệnh, và “đuổi” ông nhà báo quân đội xuống, “Thôi, vậy là số ông không rơi vào tay Việt Cộng. Ra đón cái xe lam quay lại Saigon đi…” Không, bố và năm đứa em tôi đang còn ngoài Đà Nẵng. Tôi chờ tàu sửa xong, tiếp tục cà rịch cà tang bay về thành phố nổi loạn. Rồi ba mươi tháng Tư. Mất Đà Nẵng, mất Long Khánh. Mất miền Nam Việt Nam. Tôi tưởng cởi bỏ quân phục là rã ngũ, là binh nhất Tiểu đoàn 10 Chiến Tranh Chính Trị sẽ chẳng bao giờ còn dịp gặp và làm quen anh chàng “Lính” của Phòng 7 Bộ Tổng Tham Mưu.
Giải Phóng. Thôi, khỏi nói. Chuyện cán bộ cách mạng núp bóng cờ đỏ và súng AK để trả thù “ngụy” thì không cần kể, thiên hạ cũng đã đầy tai. Xin nói về cái “mất” buồn cười. Sau khi thử đủ thứ nghề để sống sót mà vẫn thua, tôi nạp đơn xin làm lái xe cho Công Ty Xây Dựng số 7. Bước một, thi tay nghề. Ông thủ trưởng dắt tôi ra bãi xe với 5 chiếc “Молотова” số tay, biểu chọn một chiếc. Chạy một vòng từ dốc Hòa Cầm về đến cầu Trịnh Minh Thế, quay lui, vào bãi dốc xuôi, đầu xe cắm xuống phía trước, tôi tắt máy, cài số de, kéo thắng tay. Vừa bước xuống, thủ trưởng nói “tay nghề anh khá, tôi nhận anh. Về cắt hộ khẩu, mai đem hồ sơ lên nhận việc”. Bước hai, tôi hí hửng ra công an phường sáng sớm hôm sau cắt hộ khẩu để đi làm công nhân viên nhà nước. Lên công ty, công ty biểu xuống công an giao thông đổi bằng lái VNCH ra bằng giải phóng. Công an giao thông biểu về công ty lấy xe xuống thi. Công ty biểu tôi chưa có bằng, chưa là nhân viên chính thức, thì không cho mượn xe được. Chuyện cứ như đùa: tôi không nhận được việc, mà mất luôn hộ khẩu thành phố Đà Nẵng, bèn khăn gói quả mướp vào Saigon bụi đời kiếm sống. Bến bờ đầu tiên tôi tấp vào, là xin làm phòng lay out cho báo Công Giáo và Dân tộc. Ba tháng sau, linh mục chủ nhiệm Vương Đình Bích đuổi sở, “chúng tôi rất cần anh, nhưng anh là lính Chiến Tranh Chính Trị, là phóng viên của nhật báo Sóng Thần chuyên chống cộng trước 75, là cựu nhân viên tiểu đoàn 7 Tâm Lý Chiến Mỹ, là phóng viên chiến trường của thông tấn xã AP”. Đúng thế. Tội ác tôi quá lớn nên Chúa thứ tha mà cha không xóa tội. Từ văn phòng của cha chủ nhiệm buớc ra, tôi biết tôi vào chân tường. Về lại Đà Nẵng sẽ khó sống; ủy ban nhân dân đã lập tòa án nhân dân đem tôi ra đấu tố, “một tên xê-i-a của Mỹ cài lại, sách báo đảng đọc không sót một chữ, để chống phá cách mạng”. Bám lại Saigon thì không vốn liếng làm ăn, không bà con thân thích để cậy nhờ. “Chúa đã bỏ loài người. Phật đã bỏ loài người”. Tôi phải kể vòng vo tam quốc như thế, để các bạn thấy vào lúc đời tôi đen như mõm chó, chỉ còn nước tự tử, thì tôi gặp ViVi. Phải công bằng mà nhìn nhận, nhờ có “giải phóng” (lại xin đừng nói lái), tôi “được” một người, mà ba mươi hai năm sau tôi hoan hỉ gọi là bạn. Giữa cái “được” trống không và mai mỉa, giữa cái “mất” của niềm tin và tình con người, ông trời mềm lòng, gởi tới tôi một người ân nhân. bắn mười băng đạn rồi nghe em hò nghe đau mục ván con đò võ vàng em, với âu lo Huế buồn. Tôi qua hết mọi suối nguồn chưa nâng niu được tâm hồn em đâu tên dòng sông đẹp mà sao rong rêu trói chặt cây sào đò ơi Vòng tay ôm biết bao người mà em chới với chơi vơi một mình biết tôi thương vẫn né nhìn điều toan nói lại muốn ghìm xót xa “Mỹ lùa vô, ngụy kéo ra sông đâu có sóng vậy mà bồng bênh mà ngả nghiêng mà gập gềnh mà chua xót mà buồn tênh anh nờ…” Tôi nghèo trong mỗi vần thơ nên tôi quét súng dọc bờ đau thương tôi dồn hết sóng sông Hương cho em đủ gió dong buồm ra đi…”
Như đã nói, tôi quen ViVi rất muộn. mặc dù ViVi làm nhiều chuyện tày đình với chính quyền cách mạng để cứu tôi, tôi vẫn không thể bằng vào những kỷ niệm nho nhỏ để kết luận về một con người. Cái mà tôi biết về anh chàng họa sĩ quá ít. Nhưng cái mà anh chàng làm cho bè bạn — trong số đó có tôi — thật nhiều. Hắn ít nói. Nhỏ nhẹ. Không cãi cọ. Cười vui. Và dấn thân. Cứ như mưu tìm hạnh phúc cho người khác là niềm hạnh phúc của hắn. Sau khi trở về Đà Nẵng và dội trở vào Nam lần thứ nhì năm 1981, tôi ghé nhà thăm và bảo sẽ về Đồng Nai bạt rừng làm rẫy, ViVi tâm sự có người quen kêu cho hắn một chỗ trên thuyền, nhưng không biết nên nghĩ sao. Tôi xúi ẩu, “thì đi chứ nghĩ gì nữa”. Một là xuống thủy, hai là ở với khỉ (cộng sản nói khỉ là tổ tiên của loài người), ba là tới Mỹ. Hắn đi thật. Khi tôi đạp chiếc xe đạp khốn khổ 42 cây số chở bắp non đầu mùa về cho ViVi, anh chàng vừa đi được mấy hôm. Gõ cửa, không còn bạn, đành đạp xe về, cầu mong hắn thuận buồm mát mái.
9 năm sau khi ViVi vượt biên thành công, tôi thua thêm mấy vụ nữa, nếm mùi nhà giam băng-ky Bình Thạnh, số 4 Phan Đăng Lưu, Chí Hòa, Đồng Phú, rồi mới rời Việt Nam bằng máy bay. ViVi làm cái gì cũng vừa hay vừa hên hơn tôi. Chẳng những cái số tôi con rệp, mà bản thân tôi cũng là con rệp, không ra trò trống gì cả. Tới Mỹ theo diện mồ côi, được hội thiện nguyện YMCA dắt về Houston như mán về thành, lớ ngớ ngù ngờ, tôi khám phá ra rằng đặt chân xuống miền đất hứa không có nghĩa là vào lọt nước thiên đàng: đây mới là ngưỡng cửa của đoạn đường chiến binh. Ba tuần sau tôi lấy bằng lái xe, ông anh bà con gần của bên vợ nghe tin, tới đón về nhà cho ăn chơi một cái Thanksgiving, và bảo cứ đi tìm chiếc xe nào giá khoảng một ngàn trở xuống, ổng sẽ cho mượn tiền mua, để có phương tiện đi làm. Xe cũ bày bán nhan nhản, vợ chồng tôi cứ như triệu phú, ngày nào cũng lội vào các dealer ngắm nghía. Tìm ra cả ngàn chiếc xe vừa ý và “vừa túi tiền”, nhưng ngàn bạc hứa hẹn chờ hoài không thấy tăm hơi. Lại vào chân tường, và lại tìm số điện thọai, gọi cho ViVi ở Montréal. Hắn nói hắn cũng đang lận đận lắm, nhưng hắn có cô em họ ở Houston. Để đó hắn xoay xở. Hắn xoay xở thật. Ít hôm sau, có một phụ nữ trẻ đẹp tới gõ cửa phòng trọ của gia đình tôi ở khu ổ chuột. Cô nầy tự giới thiệu là em của ViVi bên Canada, và nói chính anh ViVi nhờ cô đến tìm cách cứu nguy. Tôi kể rằng tôi có thể xin được công việc gì đó, nhưng không có cái xe cà tàng thì khó lòng quán xuyến gia đình. Tôi cũng kể cho cô ấy nghe tôi được hứa cho mượn một ngàn, nên vợ chồng đã tìm thấy cả khối xe ưa ý. Cô bạn cắt ngang: “anh chị kiếm xe từ ba đến năm ngàn thì em cho mượn, ít hơn thì em từ chối, vì đem xe về chỉ tốn thêm tiền sửa, hoặc xe nằm đống”. Ba ngày sau tôi đã mua xong xe, trả bằng tìền mặt. Ngày đầu nhận việc, tôi lái xe đi làm, còn cho năm người hàng xóm quá giang. Mấy người trong xóm ổ chuột West Bellfort chữi tôi một mách, “thằng láu cá, nói qua Mỹ hai tay trắng, vài tuần sau đã sắm xe, pay off bằng tiền mặt”. Hai tháng sau đó, cũng chính cô em của ViVi tới thăm, chở cho microwave, máy ảnh, thuốc lá. Cô dặn vợ chồng tôi “hãy khoan nghĩ tới vấn đề trả góp hàng tháng. Em không cho, anh chị phải trả, nhưng khi nào ổn định nhà cửa, thì mới bắt đầu trả. Còn bây giờ, đến phiên chị phải lấy bằng lái, và phải mua thêm cái xe nữa”. Chuyện cứ như đùa. Cô ấy gọi phone thăm hỏi hàng tuần. Bốn tuần sau vợ tôi lấy được bằng lái. Tuần thứ năm, cô ấy lại lặn lội xuống thăm, và đọc lệnh, “lần nầy anh phải mua chiếc khá hơn cho chị, kính lên xuống tự động, có radio cassette, máy lạnh thật tốt. Đàn bà con gái chạy giữa đường đêm hôm xe có chuyện gì kẹt lắm. Lần nầy anh phải mua xe từ năm ngàn trở lên”. Thế là vợ chồng tôi bị chữi thêm một trận nữa, “thằng láu cá, nói qua Mỹ hai tay trắng…” Có ai biết giùm cho tôi, cái tội có tiền mặt mua liền hai cái xe trong vòng mấy tháng, là “Tội” của một người bên Canada, nào phải lỗi tôi?
Những ngày này ViVi sắp sửa kỷ niệm nửa thế kỷ cầm cọ. Khả năng thưởng ngoạn hội họa của tôi kém, khả năng viết về hội họa của tôi tồi. Nếu tôi viết về họa sĩ ViVi, tôi sẽ làm giảm đi danh tiếng của một người có thực tài, và đã đóng góp cho đời, cho người không ít. Tôi xin được nói về một người tên Võ Hùng Kiệt, theo cách biết của tôi, theo kiểu quen của tôi, và theo cảm nhận của riêng tôi. Thật ra, những gì tôi kể trên đây, tôi đã kể lác đác với những người thứ ba. Những ai chưa biết về tính nết của ViVi, thì lấy làm lạ. Những ai biết ViVi nhiều hơn tôi, thân với ViVi hơn tôi, thì gạt phắt đi, “chuyện ấy có gì lạ mà phải nói? Tính nết hắn là thế, ai chẳng biết? Nghe ai khốn khó, hoạn nạn, là nhảy xổ vào, lo hơn là lo việc nhà của hắn”. |
||||||